Trong khi sản xuất gạch đất sét nung
làm tiêu tốn đất nông nghiệp, than đá, đồng thời thải hàng triệu tấn
khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính, thì ngược lại vật liệu xây không nung
(VLXKN) không chỉ hạn chế những tác động bất lợi trên mà còn tái chế
đáng kể lượng phế thải công nghiệp, biến phế thải thành vật liệu có
ích.
Hơn nữa, đầu tư
dây chuyền sản xuất VLXKN công suất lớn chỉ bằng 45-60% so với suất đầu
tư dây chuyền gạch đất sét nung bằng lò tuy nen. Diện tích xây dựng các
cơ sở sản xuất VLXKN tính trên công suất thiết kế cũng chỉ bằng 50-70%
so với cơ sở sản xuất gạch xây từ đất sét nung.
Tiết kiệm hàng triệu mét khối đất
Sản xuất gạch không nung tại Công ty TNHH một thành viên Nam Huy (Lào Cai).
Theo quy hoạch tổng thể
phát triển vật liệu xây dựng đến năm 2020, nhu cầu sử dụng vật liệu xây
tương ứng khoảng 42 tỷ viên gạch quy chuẩn. Nếu chỉ dùng gạch đất sét
nung, năm 2020 cả nước sẽ mất khoảng 2.800-3.000ha đất nông nghiệp;
tiêu tốn 5,3-5,6 triệu tấn than, thải ra khoảng 17 triệu tấn khí CO2
gây hiệu ứng nhà kính. Vì vậy, việc thay thế gạch đất sét nung bằng
VLXKN có ưu điểm lớn nhất là hạn chế được các tác động bất lợi trên,
bảo vệ môi trường, an ninh lương thực và tạo việc làm cho nông dân.
Ngoài ra, với lợi thế về công nghệ, VLXKN còn biến một phần đáng kể phế
thải của các ngành nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng... thành vật liệu
(ước tính đến năm 2020 lượng phế thải tro, xỉ khoảng 45 triệu tấn sẽ
mất khoảng 1.100ha mặt bằng để chứa), đồng thời tác động tích cực đến
một số lĩnh vực và chương trình khác như kích cầu tiêu thụ hàng triệu
tấn xi măng mỗi năm; giảm đáng kể lượng tiêu hao than; tiết kiệm điện
trong sử dụng điều hòa nhiệt độ nhờ cách nhiệt tốt; tạo điều kiện
chuyển đổi một số doanh nghiệp sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ
công sang sản xuất VLXKN. Nhờ những ưu điểm trên, sử dụng VLXKN đã trở
thành xu thế chung của các nước trên thế giới. Ở Trung Quốc, đến năm
2010 vật liệu xây kiểu mới phải chiếm tỷ lệ hơn 55%; ở Anh, VLXKN đang
chiếm 60% trong tổng số vật liệu xây.
Cần ưu đãi đầu tư để sản xuất VLXKN
Theo Bộ Xây dựng, cả
nước hiện có khoảng 800 cơ sở sản xuất VLXKN, với tổng công suất 1,6 tỷ
viên quy tiêu chuẩn/năm, chiếm 8% tổng số vật liệu xây. Trong đó có 31
dây chuyền công suất vừa và lớn với tổng công suất 552 triệu viên quy
tiêu chuẩn/năm (chiếm 33% tổng công suất VLXKN). Số còn lại (67%) là
các dây chuyền có công suất nhỏ, quy mô hộ gia đình. Việc phát triển
sản xuất và sử dụng VLXKN chưa đạt mục tiêu bởi quy cách viên gạch xây
ở một số dây chuyền sản xuất cũ chưa hợp lý, kích thước và khối lượng
quá lớn, gây khó khăn cho thi công. Nhận thức trong xã hội về sử dụng
VLXKN còn hạn chế, nên một số ưu điểm, nhất là tính chất nhẹ, cách
nhiệt của VLXKN chưa được các nhà thiết kế, chủ đầu tư khai thác. Một
số loại VLXKN có tính năng kỹ thuật cao, nhưng giá thành chưa cạnh
tranh được với gạch đất sét nung. Trong khi đó cơ chế, chính sách chưa
đủ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất và sử dụng VLXKN...
Để
đạt mục tiêu sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung với tỉ lệ 20-25%
vào năm 2015 và 30-40% vào năm 2020, Bộ Xây dựng đề nghị áp dụng nhiều
chính sách ưu đãi với dự án phát triển VLXKN. Chẳng hạn, tổ chức, cá
nhân được miễn tiền thuê đất, giảm tiền sử dụng đất khi đầu tư xây dựng
cơ sở sản xuất VLXKN; được ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu
phục vụ sản xuất gạch nhẹ; được áp dụng thuế suất 5% thuế giá trị gia
tăng khi bán sản phẩm; được ưu tiên vay từ nguồn vốn ưu đãi của các tổ
chức quốc tế, hỗ trợ 50% vốn chuyển giao công nghệ. Mặt khác, sẽ tăng
thuế khai thác tài nguyên đất sét và áp dụng cơ chế bắt buộc công trình
sử dụng vốn ngân sách phải sử dụng ít nhất 50% VLXKN loại nhẹ. Ước tính
nhu cầu vốn đầu tư phát triển VLXKN khoảng 5.200-6.500 tỷ đồng. Với
những ưu thế vượt trội của VLXKN, có thể nói đầu tư cho loại vật liệu
này chính là đầu tư cho tương lai.
Theo Báo Xây Dựng |