Sử dụng ống nhựa PPR, HDPE cỡ lớn đang là xu hướng mới trong ngành vật liệu xây dựng do có nhiều đặc tính ưu việt.
Vài năm gần đây, xu hướng sử dụng ống nhựa PPR, HDPE
trong các công trình xây dựng thay cho ống bê-tông, gang thép, gốm sứ
ngày càng phổ biến. Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam, từ những năm 1990 đến
năm 2005, nhu cầu về ống HDPE tăng từ 3-3,5 lần trong khi ống PPR tăng 5
lần.
Hai loại ống này có nhiều đặc tính kỹ thuật ưu việt
như trọng lượng nhẹ, chống gỉ sét, độ kín cao, không độc hại và tuổi thọ
trung bình có thể lên đến 50 năm nếu lắp đặt đúng kỹ thuật. Ngoài ra,
nhờ có dạng mềm, dễ uốn cong để linh hoạt trong thi công, mối nối thao
tác đơn giản nên ống HDPE được ưa chuộng hơn PPR.
Vì thế, theo ông Trần Quang Hưng, Tổng Thư ký Hội Cấp
thoát nước Việt Nam, HPDE và PPR đang được cải tiến để tiện dụng hơn,
dùng trong hệ thống thoát nước các công trình xây dựng công nghiệp, giao
thông, tưới tiêu phục vụ nông nghiệp và bảo vệ đường cáp ngầm.
Khe hở của thị trường
Theo tính toán của Bộ Công Thương, tốc độ tăng trưởng
sản lượng ngành nhựa giai đoạn 2005-2010 khá cao, 20%/năm. Riêng ống
nhựa làm vật liệu xây dựng tăng 25%/năm và được dự báo tiếp tục tăng cao
hơn vào các năm sau.

Hơn nữa, sức ép từ tốc độ phát triển đô thị, dân số và
tỉ lệ thất thoát nước đang khiến Việt Nam đối mặt với nguy cơ quá tải
ngày càng lớn. Biểu hiện cụ thể là mỗi năm, dân số ở đô thị tăng thêm 1
triệu người và mỗi tháng có thêm 1 đô thị mới. Trong khi đó, bình quân
tỉ lệ thất thoát nước trên cả nước là 33%/năm (theo Hội Cấp thoát nước
Việt Nam). Tình trạng trên, theo ông Hưng, đã buộc Chính phủ đi đến
quyết định đầu tư hệ thống cấp nước với tỉ lệ bao phủ 85-90% đối với đô
thị loại II và 50-60% đối với đô thị loại III và IV.
Tại các nước phát triển, ống HDPE đường kính trên
1.000 mm được sử dụng phổ biến trong xây dựng hạ tầng lớn. Còn tại Việt
Nam, ống HDPE do công ty trong nước sản xuất thường có đường kính từ 630
đến dưới 1.000 mm nhưng các nhà thầu hay yêu cầu dùng ống đường kính từ
1.000 mm trở lên. Đó là nhận định của ông Manfred Reichel, cố vấn kinh
doanh Tập đoàn KraussMaffei (Đức), chuyên cung cấp dây chuyền sản xuất
ống HDPE cỡ lớn.
Cũng do sản phẩm trong nước chưa đáp ứng nhu cầu nên
khi tham gia các dự án hạ tầng lớn, nhà sản xuất Việt Nam phải dùng ống
nhựa HDPE cỡ lớn của Anh, Đức, Hàn Quốc để chào hàng. Giá thì cao gấp
2-3 lần giá gốc lại phải cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc (giá rẻ
hơn, mặt hàng đa dạng hơn). Nhãn hiệu Trung Quốc mà giới xây dựng thường
dùng là Ginde, có thể cung cấp các loại ống nhựa HDPE đường kính từ
800-1.800 mm.
Nắm được khe hở đó của thị trường, tháng 8.2009, Công
ty Nhựa Bình Minh quyết định đầu tư dây chuyền sản xuất ống HDPE với các
kích cỡ đường kính 710 mm, 800 mm, 900 mm. Nhưng kết quả không như mong
đợi do nhu cầu trong nước cần ống kích cỡ lớn hơn.
Mới đây, Công ty đã đầu tư 80 tỉ đồng để nhập dây
chuyền công nghệ của KraussMaffei về sản xuất ống HDPE 1.200 mm, công
suất 10.000 tấn/năm. Hiện đây là doanh nghiệp Việt Nam duy nhất sản xuất
ống HDPE kích cỡ trên 1.000 mm.
Mặc dù dây chuyền hoạt động hoàn toàn tự động, khép
kín nhưng ông Reichel cho biết, để sản phẩm đạt chất lượng cao, nhà sản
xuất phải tuân thủ quy trình kiểm tra nghiêm ngặt từ khâu nguyên liệu
cho đến các áp lực thay đổi môi trường. Đặc biệt, khâu sử dụng màu sắc
phải thống nhất vì nó ảnh hưởng đến tác động bức xạ của tia cực tím, có
thể làm ống nhanh hao mòn.
Đồng bộ chính sách
Bà Nguyễn Thị Kim Yến, Phó Tổng Giám đốc Công ty Nhựa
Bình Minh, cho biết việc đưa dây chuyền sản xuất mới vào hoạt động sẽ
nâng công suất công ty con của Nhựa Bình Minh ở miền Bắc lên 30.000
tấn/năm và công suất cả Công ty là 70.000 tấn/năm, giữ ổn định tốc độ
tăng trưởng chung khoảng 15-20%/năm.
Việc Nhựa Bình Minh đầu tư lớn có thể dẫn đến lo ngại
giá sản phẩm tăng cao. Nhưng theo quy hoạch của Bộ Công Thương giai đoạn
2010-2015, các nhà sản xuất nhựa sẽ được đáp ứng 50-70% nguyên liệu
trong nước nhằm hạn chế ảnh hưởng từ giá nguyên liệu thế giới.
Thêm vào đó, một khi trong nước đã sản xuất được, các
nhà thầu không dại gì chọn hàng nhập khẩu. Vì như vậy, họ sẽ mất khoản
tiền từ 2.000-3.000 USD/lượt (chưa kể phí vận chuyển) cho mỗi container 4
ống HDPE cỡ lớn (nếu nhập từ Úc), một đại diện Nhựa Bình Minh cho biết.
Sắp tới, Nhựa Bình Minh sẽ tung sản phẩm HDPE 1.200 mm
ra thị trường với giá (chưa tính thuế giá trị gia tăng) thấp hơn 20% so
với hàng Trung Quốc, Hàn Quốc. “Trước mắt, chúng tôi tập trung vào thị
trường miền Bắc, sau đó sẽ thử nghiệm nguyên vật liệu mới nhằm nâng cao
chất lượng và giảm giá sản phẩm”, bà Yến cho hay.
Nhận thấy khe hở thị trường để tung ra sản phẩm phù
hợp, nhưng điều bà Yến còn lo ngại là chính sách vĩ mô ủng hộ hàng trong
nước chưa rõ ràng, thống nhất. Thậm chí, công ty tư vấn, ban quản lý dự
án cũng chưa ưu tiên chọn sản phẩm nội. Nếu giải quyết được khâu này,
ống HDPE cỡ lớn của Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh tốt so với hàng
nhập khẩu.
(Theo NCĐT) |