Ứng dụng công nghệ sản xuất VLXD mới của thế giới vào Việt Nam
là một thành quả lớn, trong đó có sự định hướng, hỗ trợ của Nhà nước, sự
dũng cảm, say sưa của DN và sự hưởng ứng của người tiêu dùng. Thành
công được nhiều người biết, nhưng ít ai biết rằng đằng sau sự thành công
là những khoảnh khắc, nhiều lúc là sự khắc khoải của người đi đầu ứng
dụng, đầu tư công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới.
Viglacera Hạ Long thành công trong việc tiên phong đầu tư công nghệ sản xuất đất sét nung
Chuyện xưa…
Dân gian có câu “vạn sự khởi đầu nan”. Đây là một chân lý! Chữ “nan”
trong câu nói trên có lúc nặng như chì song cũng có lúc nhẹ như cơn gió
thoảng. Đối với những doanh nhân đi đầu ứng dụng công nghệ sản xuất VLXD
mới thì chữ “nan” thật nặng nề, thật kinh khủng. Nhiều doanh nhân, khi
nghĩ lại những năm tháng nghiệt ngã để đưa công nghệ mới, sản phẩm VLXD
mới vào cuộc sống, không khỏi rùng mình, khiếp sợ, có lúc đã tự hỏi mình
làm sao lúc đó mình và các đồng nghiệp lại vượt qua, không bị gục ngã?.
Để giảm bớt khó khăn cho DN đầu tư ứng dụng công nghệ mới của nước
ngoài vào Việt Nam, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ như các
chính sách liên quan đến thuê mặt bằng sản xuất, thuế nhập khẩu thiết
bị đồng bộ, thuế thu nhập DN... Sự hỗ trợ đó thật đáng trân trọng.
Đừng quên rằng chúng ta đang tạo những điều kiện giúp DN ứng dụng công
nghệ sản xuất sản phẩm mới vào thời kỳ của cơ chế thị trường theo định
hướng XHCN. Trước khi đi sâu phân tích vấn đề này chúng ta hãy điểm qua
hai dự án đầu tư ứng dụng công nghệ mới sản xuất của ngành giấy và xi
măng vào thời kỳ cơ chế bao cấp. Đó là dự án giấy Bãi Bằng theo công
nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại của Thụy Điển và dự án đầu tư dây
chuyền số một của Nhà máy Xi măng Hoàng Thạch theo công nghệ của F.L
Smith - Đan Mạch - một dự án được ca ngợi và gọi là “Nàng công chúa”.
Khó khăn triển khai đầu tư của hai dự án này hoàn toàn khác với các dự
án đầu tư trong cơ chế thị trường. Sở dĩ hai dự án nói trên kéo dài thời
gian đầu tư vì không quản lý nổi hiện tượng công nhân thi công xây lắp
tại công trường vì quá ngưỡng mộ sự tuyệt hảo của vật tư thiết bị được
nhập khẩu từ các nước công nghiệp phát triển nên đã thi nhau đánh cắp
từng bu lông, ốc vít, các chi tiết, thiết bị mang ra chợ bán để rồi nhà
đầu tư lại phải ra chợ mua lại hàng mất cắp của mình. Giá trị các chi
tiết thiết bị không lớn lắm nhưng thiếu nó thì máy móc làm sao chạy nổi.
Chuyện nay…
Gian nan đầu tư, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất VLXD vào thời kỳ
đầu đổi mới là thiếu thông tin. Nhiều nhà đầu tư bị choáng ngợp khi
tiếp cận với các công nghệ mới của Italia, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Đức,
Pháp... Thiếu thông tin nên khi tiếp cận với một hãng chế tạo thiết bị
và chuyển giao công nghệ ở trình độ trung bình đã vội vàng ký hợp đồng
mà không nghĩ rằng phải chọn những hãng có đẳng cấp cao hơn. Thiếu thông
tin nên không xác định được giá cả, có khi mua phải giá đắt… Nhà đầu tư
bỡ ngỡ, nhà tư vấn lập dự án cũng không có hiểu biết nhiều hơn, quá
trình xây lắp cũng còn nhiều điều chưa hợp lý. Nhưng khó khăn lớn nhất
mà nhà đầu tư công nghệ sản xuất VLXD mới gặp phải đó chính là thị
trường. Đầu tư công nghệ mới, tất yếu cho ra sản phẩm mới với chất lượng
cao, mẫu mã đẹp có giá trị cao nên giá thành sản xuất sẽ cao hơn. Nhưng
khó khăn về giá chưa phải là cản trở lớn nhất mà khó khăn lớn nhất của
nhà đầu tư là đưa ra sản phẩm mới nhưng người tiêu dùng chưa được làm
quen, chưa hiểu biết về sản phẩm. Sản phẩm ra nhưng không có tiêu chuẩn
kỹ thuật đi kèm, thiếu cả phương pháp thử, quy phạm sử dụng, hướng dẫn
sử dụng, định mức vật tư… Sản phẩm mới thật lạ lẫm với người tiêu dùng
và đến KTS, nhà thiết kế cũng không đưa được vào bản vẽ thiết kế vì
thiếu các dữ liệu cần thiết. Chắc người tiêu dùng chưa quên những thăng
trầm, vất vả của Cty gốm xây dựng Hữu Hưng thuộc VIGLACERA nay gọi là
gạch ốp lát Hà Nội, vào những năm sau 1994. Đây là đơn vị đầu tiên của
Việt Nam ứng dụng công nghệ sản xuất gạch ốp lát ceramic bằng công nghệ
ép bán khô, lò nung thanh lăn liên tục. VIGLACERA đã trở thành người mở
đường cho kỷ nguyên gạch ốp lát ceramic ở Việt Nam. Chúng ta lại được
chứng kiến những thăng trầm đến nghẹt thở của dây chuyền sản xuất granit
nhân tạo đầu tiên của Cty Thạch Bàn. Sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã
đẹp nhưng người tiêu dùng quay lưng. Đến lượt Euro Window đưa vào thị
trường Việt Nam công nghệ sản xuất cửa nhựa chất lượng cao với thanh
Profile có lõi thép gia cường. Người tiêu dùng lâu nay vốn không ưa gì
vì cho rằng cửa nhựa là loại hàng rẻ tiền, mau hỏng chủ yếu sử dụng cho
nhà vệ sinh. Vật lộn với dây chuyền gạch ốp lát ceramic, dây chuyền sản
xuất granit, dây chuyền sản xuất cửa nhựa theo công nghệ mới đầu tiên
quả là vô cùng vất vả. Và cũng chính thời gian đó công tác xây dựng ban
hành các tiêu chuẩn kỹ thuật và các loại quy phạm hướng dẫn, xây dựng
định mức vật tư… được triển khai khẩn trương. Công tác tuyên truyền, phổ
biến thông qua các hội thảo khoa học, hội nghị khách hàng, các phương
tiện thông tin đại chúng đã giúp cho các sản phẩm này phát triển đứng
vững trên thị trường. Các nhà đầu tư thoát hiểm!
…và chuyện dài phía trước
Oái oăm thay khi mình mở đường vất vả gian nan thì ít người biết đến.
Khi sản phẩm đã được thị trường ưa chuộng thì hàng loạt các nhà đầu tư
thi nhau nhập khẩu hết dây chuyền này đến dây chuyền khác. Thoát hiểm
thiếu người mua lại đối mặt với khó khăn vì quá nhiều người bán.
Rút ra được bài học đắt giá về sự thiếu đồng bộ khi đưa công nghệ sản
phẩm mới vào thị trường, Cty Amazing trước khi đầu tư công nghệ gạch bê
tông khí chưng áp đã nhập khẩu sản phẩm Q-Con từ Thái Lan để người tiêu
dùng trong nước làm quen, đồng thời Cty đã phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ
KH&CN tổ chức xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật gạch bê tông
khí chưng áp khi mà ở trong nước chưa có dây chuyền sản xuất nào được
đầu tư. Chính bằng phương pháp tiếp cận mới này chắc chắn sẽ giúp cho
các nhà đầu tư công nghệ sản xuất bê tông khí chưng áp giảm bớt khó khăn
về thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đầu tư ứng dụng công nghệ mới, sản phẩm mới rất cần sự hỗ trợ, tạo cơ
chế chính sách của nhà nước giúp DN vượt qua khỏi khăn những năm đầu sản
xuất. Tiếc thay chúng ta không tổ chức đánh giá một cách đầy đủ, nhìn
nhận từ nhiều khía cạnh của vấn đề để hoàn thiện chính sách phù hợp theo
từng thời kỳ phát triển. Có những chính sách hỗ trợ rất lớn, ví dụ như
miễn thuế thu nhập DN cho việc ứng dụng công nghệ mới trong một thời
gian dài, nhưng vẫn có những nhà đầu tư gặp khó khăn, bị đứt gánh giữa
đường không kịp đi đến ngày “hái quả”. Để cho sự giúp đỡ của Nhà nước có
hiệu quả, định kỳ thời gian nên có đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm.
Diễn biến thị trường luôn thay đổi, khó khăn của người mở đường ứng
dụng công nghệ mới cũng thay đổi. Vì vậy sự đồng hành giữa Nhà nước và
DN với người tiêu dùng là vô cùng quan trọng.
(theo baoxaydung)
|