Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, sang năm 2012 sẽ có nhiều DN thép phá
sản. Những doanh nghiệp ngốn nhiều năng lượng, nguyên nhiên vật liệu,
chất lượng sản phẩm không tốt sẽ phải đóng cửa.
Đây chính là hậu quả của việc bất chấp cảnh báo, một loạt dự án thép
công suất nhỏ, dây chuyền lạc hậu đã được triển khai xây dựng tại các
địa phương trong thời gian qua.
Lỗ nặng
Ông Đinh Huy Tam, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép cho biết, tăng trưởng
tiêu thụ thép 9 tháng đầu năm 2011 ở mức âm và dự báo cả năm 2011 sẽ
tăng trưởng âm. Năm 2012, tăng trưởng thép chỉ ở mức 4%, thấp hơn nhiều
so với các năm trước đây, vì vậy sẽ đẩy nhiều DN lâm vào cảnh khó khăn,
các vấn đề yếu kém của các DN thép sẽ bộc lộ.
Điều mà Hiệp hội Thép dự báo trên thực tế đã diễn ra sớm hơn. Hiện
nay, Công ty cổ phần Thép Vạn Lợi (Hải Phòng) đã phải ngừng sản xuất.
Vạn Lợi hiện đang là con nợ của 6 tổ chức tín dụng, với nhiều món nợ
xấu, giá trị lớn, bên cạnh đó Vạn Lợi cũng nợ cả tiền điện hơn 11 tỷ
đồng và nợ Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng gần 7 tỷ đồng.
Công ty cổ phần Thép Đình Vũ ( Hải Phòng) liên tục lỗ trong mấy năm
qua, có năm lỗ tới hàng trăm tỉ đồng, dù đã chuyển nhượng tới 70% cổ
phần cho một tập đoàn đầu tư đến từ Úc, thì sản xuất hiện tại vẫn chưa
có dấu hiệu sáng sủa.
Công ty cổ phần Thép Cửu Long Vinashin chưa sản xuất được bao lâu đã
lâm vào tình cảnh "đắp chiếu", hiện đang trong quá trình bán lại cho 1
DN khác. Cũng theo Hiệp hội Thép, hầu hết các DN thép hiện nay đang sản
xuất cầm chừng, do tiêu thụ giảm mạnh. Nhiều DN chỉ hoạt động chừng 50%
công suất mà hàng tồn kho vẫn cao.
Những khó khăn mà các DN thép đang gặp phải là chi phí vốn quá cao,
giá các vật tư nhiên liệu đầu vào tăng ở mức hai con số, giá than, giá
xăng dầu, giá điện đều tăng vài chục phần trăm. Kể từ đầu năm giá nguyên
liệu đầu vào của ngành thép như quặng sắt, than cốc, phôi thép và thép
phế tăng hơn năm 2010 từ 20 - 30%.
Trong khi đó, do tình hình lạm phát trong nước tăng cao, Chính phủ
vẫn phải áp dụng nhiều biện pháp để kiềm chế, trong đó có việc thực hiện
chính sách cắt giảm đầu tư công, tạm dừng, hoãn các công trình chưa
thật cần thiết làm cho thị trường bất động sản năm 2011 đã thực sự rơi
vào tình trạng đóng băng.
Điều này đã tác động, làm cho tiêu thụ thép giảm và lượng thép tồn
kho tăng cao, hiện vào khoảng 500.000 tấn, trong khi bình quân lượng tồn
kho ở mức cho phép khoảng một nửa số đó. Đây là số lượng thép tồn lớn
hơn mức bình thường. Theo tính toán của Hiệp hội Thép, mức lãi mà các DN
phải trả đối với lượng hàng tồn kho này gần 150 tỷ đồng/tháng.
Một lý do nữa khiến lượng thép tiêu thụ của các DN sụt giảm mạnh là
tình trạng đầu tư tràn lan, không theo quy hoạch đã dẫn đến cung vượt
cầu trong ngành thép.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, đến nay, cả nước có 65 dự án thép có
công suất thiết kế từ 100.000 tấn/năm trở lên, trong đó có 58 dự án
trong nước và 7 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư là 41.623 tỉ đồng và
19.878 triệu USD. Điều đáng nói là trong số các dự án kể trên, có tới 32
dự án không thuộc danh mục quy hoạch đã được cấp giấy chứng nhận đầu
tư, tập trung ở các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Hải Phòng, Thanh Hóa, Hải
Dương...
Trong số này có hơn 20 dự án là địa phương cấp sai thẩm quyền, nghĩa
là đáng lẽ trước khi cấp phép, địa phương cần phải xin ý kiến bộ chuyên
ngành như Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường... và báo cáo Bộ
Kế hoạch & Đầu tư. Nhưng địa phương cứ làm theo nguyên tắc dự án nào
dưới 1.500 tỉ đồng là tự quyết định mà không hỏi ý kiến Trung ương.
Tính đến nay có 30 tỉnh, thành trên cả nước có dự án sản xuất gang
thép. Nếu so với nhu cầu trong quy hoạch ngành thép, dự kiến đến 2015,
cả nước cần khoảng 15 triệu tấn thép và năm 2020 là 20 triệu tấn thép,
thì tổng công suất thiết kế của các dự án lên tới 26 triệu tấn/năm, đấy
là chưa kể dự án 5 triệu tấn của tập đoàn Tata (Ấn Độ) liên doanh với
Tổng công ty Thép Việt Nam tại Hà tĩnh và dự án thép tấm cán nóng Bà Rịa
- Vũng Tàu (Tông công ty Thép Việt Nam mua lại của Tập đoàn Essar) 2
triệu tấn/năm, nằm trong quy hoạch nhưng đang gặp khó khăn.
Thống kê cho thấy, có tới gần 30% doanh nghiệp ngành thép đang sử
dụng công nghệ lạc hậu, khoảng hơn 40% doanh nghiệp sử dụng công nghệ ở
mức trung bình, còn lại một số ít doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên
tiến. Khó khăn lớn hiện nay thuộc về những DN địa phương có công suất
nhỏ, thiết bị lạc hậu, sản phẩm chất lượng kém và mới đi vào hoạt động.
Những DN này đứng trước nguy cơ phá sản cao.
Theo khảo sát, đa phần các dự án sản xuất thép, phôi thép, gang...
tại các địa phương đều có vốn đầu tư trên dưới 1.000 tỉ đồng. Phần lớn
các dự án này đều sử dụng nguồn vốn vay rất lớn để xây dựng và vốn lưu
động của các doanh nghiệp cũng phụ thuộc gần như hoàn toàn vào vốn vay.
Tăng trưởng cao không còn đã khiến nhiều nhà máy phải ngừng sản xuất
hoặc sản xuất cầm chừng, thép thành phẩm tồn kho lớn, lãi vay ngân hàng
lớn, trong khi giá bán thấp hơn giá thành, đang đẩy nhiều DN thép đến bờ
vực của sự phá sản. Chỉ tính riêng tại Hải Phòng, tổng số nợ cả ngắn
hạn và dài hạn của các DN thép với các tổ chức tín dụng hiện khoảng trên
dưới 4.000 tỉ đồng, trong đó, có rất nhiều nợ xấu. Đây chính là sự trả
giá lớn cho sự đầu tư bừa bãi.
Đào thải nhà máy lạc hậu
Theo ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, khủng hoảng
hiện nay khiến các DN thép lâm vào tình trạng khó khăn, nhưng đây cũng
là cơ hội để sàng lọc, buộc ngành thép phải cấu trúc lại. Những DN không
đủ khả năng phải bị loại ra khỏi ngành thép. Những nhà máy lạc hậu, quy
mô nhỏ sẽ bị đào thải, hoặc các DN sẽ phải liên kết với nhau, tạo dựng
thành những thương hiệu mạnh, chuyển hướng đầu tư sản xuất các chủng
loại thép trong nước chưa sản xuất được.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm thép dư thừa sang
các nước trong khu vực và thế giới. Nhà nước cần có chính sách khuyến
khích xuất khẩu thép như giảm thuế VAT cho sản phẩm thép xuất khẩu, ưu
đãi thuế xuất khẩu, hỗ trợ cho DN thép để có nhiều cơ hội tiếp cận với
thị trường xuất khẩu thép thế giới (bằng các chương trình xúc tiến
thương mại).
Việc đẩy mạnh xuất khẩu thép sẽ giúp cho ngành thép giải quyết lượng
thép dư thừa, DN có thêm nguồn ngoại tệ để nhập nguyên liệu và sản phẩm
thép trong nước chưa sản xuất được và giảm nhập siêu của Nhà nước. Trước
đây, các DN chỉ có thể xuất thép sang Lào, Myanmar... nhưng nay đã có
thể đưa vào các thị trường khó tính như Mỹ, Trung Đông, EU... Điều này
chứng tỏ ngành thép có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nếu
có sự đầu tư đúng hướng cùng những chính sách tạo điều kiện phù hợp với
cam kết gia nhập WTO.
Cùng với đó, việc chấn chỉnh quy hoạch ngành thép, đặc biệt là các dự
án được các địa phương cấp phép. Kiên quyết thu hồi giấy phép các dự án
không có trong quy hoạch và không thực hiện các thủ tục quy định đầu tư
mà Chính phủ ban hành. Đặc biệt là các dự án sản xuất thép xây dựng,
ống thép, thép cán nguội, thép mạ kim loại và tôn phủ màu do đã quá thừa
trong ít nhất 5 năm tới. Tôn trọng các quy định mà Bộ Công Thương đã
ban hành về quy mô công suất đầu tư và các điều kiện để dự án thép phát
triển bền vững.
Khi chính sách bảo hộ chấm dứt đối với sản xuất thép vào năm 2017,
cuộc cạnh tranh sẽ vô cùng khốc liệt. Việc của ngành thép là phải tự cứu
mình bằng cách tập trung đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hoàn
thiện công tác quản lý, chuyển hướng đầu tư bền vững, sản xuất sản phẩm
có sự ổn định để phát huy năng lực của mình, phát triển bền vững trong
điều kiện hội nhập.
Minh Tuấn - Theo dothi
|