Dự thảo Luật Đất đai đã sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất theo hướng quy
định Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất thay
cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện như Luật hiện hành nhằm gắn trách nhiệm của
người đứng đầu, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính tại địa phương.
Nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nên yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng tạo nền tảng
cho phát triển kinh tế là rất cần thiết.
Do vậy, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân tiếp tục hoàn
thiện các quy định về thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, dự án phát triển kinh tế, xã
hội cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định cụ thể các trường hợp thu hồi
đất, căn cứ thu hồi, thẩm quyền thu hồi, trách nhiệm tổ chức thực hiện
thu hồi đất, trách nhiệm quản lý quỹ đất sau thu hồi, thủ tục thu hồi
đất, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 59), lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng (Điều 60), các dự án phát triển kinh tế, xã hội (Điều 61),
thu hồi đất do vi phạm pháp luật (Điều 63), thu hồi đất do chấm dứt
việc sử dụng đất theo pháp luật hoặc tự nguyện (Điều 64) để đảm bảo tính
công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện tại địa phương;
Thứ hai, bổ sung căn cứ thu hồi đất theo từng trường hợp thu
hồi đất (Điều 62, khoản 2 Điều 62, khoản 2 Điều 64) để quản lý chặt chẽ
hơn việc thu hồi đất tại địa phương; trong đó, thu hồi đất, giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất phải căn cứ vào Kế
hoạch sử dụng đất cấp huyện hàng năm, đặc biệt là trường hợp thu hồi đất
để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội còn phải căn cứ vào
Kế hoạch thu hồi đất hàng năm được HĐND cấp tỉnh thông qua (khoản 4 Điều
43).
Thứ ba, bổ sung quy định trước khi thực hiện thu hồi đất
lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì
phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ (khoản 2 Điều 50).
Thứ tư, sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất (Điều 65) theo hướng
quy định Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất
thay cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện như Luật hiện hành nhằm gắn trách
nhiệm của người đứng đầu, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính tại địa phương.
Thứ năm, bổ sung các quy định để đảm bảo tính khả thi đối với cơ chế Nhà nước thu hồi đất theo Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện như:
Giao cho Tổ chức phát triển quỹ đất quỹ đất sau khi thu hồi để tổ
chức việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm tạo quỹ đất “sạch” (Điều
68). Sau đó, Nhà nước giao đất, cho thuê đất mà không cho chủ đầu tư
tham gia vào quá trình thu hồi đất như quy định hiện hành để điều tiết
chênh lệch giá đất trước và sau khi thu hồi đất vào ngân sách nhà nước;
không giao trách nhiệm quản lý quỹ đất đã thu hồi tại khu vực nông thôn
cho UBND cấp xã như hiện hành mà thống nhất giao cho Tổ chức phát triển
quỹ đất để đảm bảo tính thống nhất và chuyên nghiệp trong việc khai thác
quỹ đất sau khi thu hồi.
Bổ sung quy định về cơ chế hoạt động của Quỹ phát triển đất để đảm bảo kinh phí cho việc thực hiện thu hồi đất (Điều 106);
Quy định trách nhiệm của Nhà nước khi xây dựng, mở rộng các công
trình kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị thì phải quy hoạch và tổ chức
thu hồi cả phần diện tích đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng
phụ cận để tạo nguồn lực từ đất đai đầu tư cho các công trình này và hỗ
trợ người có đất bị thu hồi (khoản 3 Điều 60);
Thứ sáu, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, dự án phát
triển kinh tế, xã hội nhằm đảm bảo tính thống nhất, công khai, minh bạch
và hạn chế ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất do tổ chức
thực hiện thu hồi đất tại địa phương, gồm trình tự, thủ tục thu hồi đất
theo kế hoạch sử dụng đất (Điều 69) và trình tự, thủ tục thu hồi đất để
giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư (Điều 70).
Đồng thời dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) còn bổ sung quy định về
cưỡng chế trong bước đo đạc, kiểm đếm để lập phương án bồi thường trước
khi có quyết định thu hồi đất (kiểm đếm bắt buộc) và cưỡng chế thực hiện
quyết định thu hồi đất (Điều 71).
Thứ bảy, bổ sung quy định về chế tài đối với trường hợp thu
hồi đất do chậm đưa đất vào sử dụng như Nhà nước không trả lại tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất, giá trị đã đầu tư vào đất còn lại đối với người
có đất bị thu hồi (điểm h khoản 1 Điều 63).
Với những đổi mới cơ bản của Luật Đất đai (sửa đổi) nói chung và nội
dung quy định về thu hồi đất nói riêng, hy vọng sẽ góp phần giải quyết
các vướng mắc, bất cập trong quản lý, sử dụng đất đai hiện nay; giảm các
khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí trong đất đai; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về đất đai; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên
đất, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực đất đai phục vụ phát triển
kinh tế của đất nước; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế./.
(Theo dothi)
|